Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn – Ô-Hay.Vn

Thần chú Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn

Thần chú này được trích ra từ nơi Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức. Theo như trong kinh, đức Thích Ca Như Lai nói nếu có chứng bệnh gì mà cứ nhứt tâm trì chú này trong nước tịnh thủy đủ 108 biến rồi uống vào thì các bệnh đều lành liền.

Còn như những người mà trọn đời thọ trì chú này thì đặng khỏi bệnh tật và được sống lâu, đến lúc mạng chung lại được sanh về cõi Tịnh Lưu Ly. Nhưng phải biết rằng: chú này được gọi là “Quán Đảnh” là nói chú này do nơi đảnh quang của Phật mà thuyết ra. Người nào nếu thọ trì đọc tụng chú này mà đặng thanh tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ý) thì hào quang Phật chiếu ngay đến nơi đảnh môn của người trì tụng ấy một cách mát mẻ như rưới nước cam lồ vậy.

Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lu rô tịch lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà dã, đát tha yết đa gia, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da. Đát điệt tha: Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Giảng Giải chú Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn

Nam mô: dịch là quy mệnh, hoặc tin theo, cung kính y theo, quay về đảnh lễ, kính xin hóa độ con. Nam mô có nghĩa là cung kính, cũng có nghĩa là tin tưởng nhất, không có mảy may hoài nghi. Cho nên nói cung kính quy mệnh nương về, đem thân tâm tính mệnh quy y Phật, cũng tức là tín ngưỡng Phật một cách không điều kiện, biết Phật sẽ hóa độ chúng ta. Cho nên nói : “Quy mệnh kính đầu nghĩa Na mô”. Nam mô tức na mô là tiếng Phạn, có nghĩa là quy mệnh cung kính nương về, cũng có nghĩa là kính lễ tin theo.

bạc già phạt đế: dịch là “Bạt Già Phạm”. Bạt Già Phạm là tiếng Phạn có sáu nghĩa: 1. Tự tại 2. Sí thạnh 3. Đoan nghiêm 4. Danh xưng 5. Cát tường 6. Tôn quý.

Vì có sáu nghĩa này, cho nên Bạt Già Phạm trong Kinh văn hoặc trong Chú không phiên dịch. Đây gọi là “đa hàm không dịch”, là một trong năm loại không dịch.

  • Tự tại là gì? Tức là vô tại vô bất tại. Phật thì vô tại vô bất tại. Bạt Già Phạm là một danh hiệu của đức Phật.
  • Sí thạnh là hình dung oai đức của Phật, rực sáng như lửa.
  • Đoan là đoan chánh. Nghiêm là oai nghiêm, đây là Phật có 32 tướng, 80 vẻ đẹp, rất đoan nghiêm.
  • Danh xưng của Phật nghe khắp, cho nên chúng sinh đều biết.
  • Bất cứ ai gặp được Phật đều đắc được cát tường, tùy tâm mãn nguyện, cát tường như ý.
  • Tôn quý là nói mười tướng tốt của Phật, là trời người đều tôn quý trong tam giới

Cho nên nói ‘

  • ’Nhiều nghĩa không dịch Bạt Già Phạm – Tự tại sí thạnh diệu đoan nghiêm.’’ Ngài rất tự tại sí thạnh đoan nghiêm.
  • ‘’Nghe đến danh hiệu được cát tường.’’ Bất cứ ai nghe đến danh hiệu của Phật đều đắc được cát tường, nơi nơi đều cát tường. ‘
  • ’Trời người tôn quý đồng chiêm ngưỡng.’’ Trời người đều cung kính Ngài, chiêm ngưỡng Ngài, Phật giống như mặt trời.

bệ sát xã: là tên gọi của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương đông tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Trong chú Lăng Nghiêm là “Ti Sa Xà Gia” trong câu: Nam mô bà già bà đế, ti sa xà gia

“Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị Phật nầy là một thầy thuốc lớn (Đại lương y – Y Vương), có thể trị tất cả mọi bệnh tật của con người trong thế gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì, nếu được Ngài cứu chữa thì chắc chắn bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng được chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng chết mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”.

lụ rô tịch lưu ly: là cõi tịnh độ Lưu Ly ở phương đông cực lạc.

“Lưu Ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài có thể nhìn xuyên vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng là chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết.

bát lặc bà: hay Bát La Bà tức là “trí huệ quang minh”.

“Đại tài Bát Nhã trí huệ quang, Phổ chiếu pháp giới tánh trung vương”

Đây là nói :‘’ Đại tài Bát Nhã trí huệ quang – Chiếu khắp pháp giới tính trung vương.’’ Tính trung vương tức là bổn thể của Phật.

hắc ra xà dã: Đây là nói “phổ lễ tất cả các vị bồ tát”. Dịch là “Kim Cang thủ chủ”, tức là Kim Cang thủ lãnh. Vị ấy thượng thủ trong Kim Cang. Nghĩa là “thương chúng sinh khổ”. Vì thương xót tất cả chúng sinh khổ, nghĩ muốn chúng sinh lìa khổ được vui, ra khỏi ba cõi, cho nên muốn cứu độ chúng, từ từ giáo hóa chúng, khiến cho tất cả tự phát bồ đề tâm, thoát khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Kim Cang Tạng Bồ Tát hộ niệm người tu hành, tế độ họ, khiến cho họ từ bờ sinh tử bên này qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ bên kia Niết Bàn, khiến cho tất cả phiền não và bệnh khổ của họ chẳng còn nữa, rốt ráo lìa khổ được vui.

đát tha yết đa gia: hay đa tha già đa gia. Đây là nói “phổ lễ tất cả đệ tử của Như Lai”. Đệ tử của Như Lai là ai ? Là hết thảy tất cả hiền Thánh Tăng, cho nên nói : ‘’Thường trụ Tam Bảo Phật Pháp Tăng.’’ Thường trụ tức là thường trụ bất biến, đó là tận hư không biến pháp giới, một thứ chánh khí, đạo phải có Phật có Pháp có Tăng. Phật kể cả Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, đây gọi là tất cả chư Phật ba đời.

Tam Bảo tức là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Sao gọi là bảo ? Vì rất ít có, chẳng phải lúc nào cũng có thể thấy được. Tuy nhiên thường trụ nhưng nghiệp chướng của chúng ta che lấp trí huệ của mình, cho nên không thấy được Phật, không nghe được Pháp, không thấy được Tăng. Bây giờ chúng ta thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, cho nên phải một lòng cung kính, chuyên nhất kỳ tâm, tâm không có hai niệm. Cung kính Tam Bảo phải kiền thành, chẳng phải làm hình thức, biểu diễn bên ngoài, phải cung kính chân thật, tâm thật không hai, càng kiền thành càng tốt.

‘’Đệ tử Như Lai A La Hán.’’ Đệ tử của Phật tức là tất cả đại A La Hán, đại Tỳ Kheo Tăng, đêm dài tối tăm ở đây, thì A La Hán hiền Thánh Tăng Tam Bảo là đèn sáng chỉ đường cho chúng ta, cho nên ‘’Đèn sáng lớn phá tan đêm tối.’’ Đèn sáng lớn, tức là chánh khí, chánh pháp trụ thế. Những kẻ bác vô nhân quả, làm nhất xiển đề cũng giống như đêm dài tối tăm, không thấy quang minh. Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là đèn sáng lớn phá đêm dài tối tăm.

a ra hắc đế: hay là A La Ha Đế nghiã là “tất cả ứng chân chúng vương tộc”. Ứng là cảm ứng đạo giao. Chân là chân thật thị hiện

tam miệu tam bột đà da: Là quy mạng mười phương ba đời tất cả chư Phật. Câu chú là “quy mạng tất cả Chánh Giác Phật Thế Tôn”. Quy là tâm có chỗ trở về, có chỗ nương tựa. Mạng tức là mạng sống, đem mạng sống của chúng ta ký thác cho Phật Chánh Giác. Chánh Giác thì chẳng phải là tà giác. Tà giác cũng rất thông minh, có chút trí huệ, nhưng đi vào đường tà, đi vào con đường bàn môn tả đạo, tà tri tà kiến, hành vi bất chánh. Chúng ta quy y chánh giác Phật.

Phật là nửa chữ Phạn ngữ, đầy đủ gọi là Phật Đà Gia vì người Tàu thích gọi tắt cho nên chỉ gọi một chữ Phật. Dịch là “giác giả”, giác có ba loại là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Giác tha tức là dùng những đạo lý mình đã hiểu, khiến cho kẻ khác cũng hiểu. Tự giác trong Nho giáo là minh minh đức, đem đức hạnh của mình hiện ra quang minh, minh mà lại minh, bổn hữu trí huệ quang minh lộ ra. Giác tha tức là dùng đức hạnh minh minh đức của mình giáo hóa kẻ khác, khiến cho họ cũng minh minh đức đạt đến mức chí thiện. đến chí thiện rồi tức là giác hạnh viên mãn.

Đát điệt tha: Tiếng Phạn là Tadyatha. Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị” có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng.

Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh.

Án: Tiếng Phạn là Om. Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật. Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.

Chữ Án này có rất nhiều nghĩa. Có nghĩa là : “Dẫn sinh”, tức là dẫn sinh tất cả công đức. Có nghĩa là: “Hàng phục”, hàng phục thiên ma ngoại đạo. Có nghĩa là: “Ủng hộ”, ủng hộ tất cả chánh pháp. Có nghĩa là : “Ba thân”, đầy đủ pháp thân, báo thân, hóa thân. Cho nên khi niệm chữ Án, thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính nghe mệnh lệnh, nếu không thì chúng sẽ bị trừng phạt. Chữ Án như là chiếu chỉ của hoàng đế, văn võ bá quan đều phải quỳ xuống lắng nghe. Chữ Án là sự thành tựu công đức, bạn có tu hành, thì niệm chữ Án sẽ có cảm ứng phi thường.

bệ sát thệ, bệ sát thệ: nghĩa là Như Lai. Sao gọi là Như Lai ? “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”, không có chỗ đến, cũng không có chỗ đi nên gọi là Như Lai. Không đến không đi, như đến nhưng dường như không đến. Cho nên nói : “Vô lai vô khứ kính trung hoa”, cũng không có từ chỗ đến, cũng không có chỗ đi, giống như hoa trong gương vậy, quý vị nói hoa trong gương từ đâu đến, lại đi về đâu ?

Ðức Phật thì không giống với Bồ tát, Ðức Phật có thể tự giác lại có thể giác tha và lại giác hạnh viên mãn. Giác viên mãn, vạn hạnh cũng viên mãn. Tam giác viên mãn muôn vạn đức hạnh đầy đủ, cho nên gọi là Phật

bệ sát xã: là tên gọi của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương đông tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.

tam một yết đế tóa ha. nghĩa là ba đời khen ngợi tán tức giai giải thoát đến bến bờ bên kia. Tóa ha tiếng Phạn là Svaha hay ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm.

Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là muốn cứu độ các chúng sanh, giải trừ cho họ thoát khỏi bệnh tật thống khổ, cho nên trong ánh hào quang, Ngài nói thần chú. Thần chú này chỉ có mấy câu, rất ngắn, nhưng cái diệu dụng của nó thì vô cùng tận. Tuy nhiên muốn được lợi ích, ta phải có lòng tin, rồi trì tụng nó một cách chuyên cần.

Đối với các y sĩ làm nghề chữa bệnh, nếu một mặt họ trị bệnh bằng thuốc, mặt khác họ lại trì tụng thêm thần chú này thì chắc hiệu nghiệm nhiều hơn và bệnh tình sẽ chóng thuyên giảm. Cho nên trì tụng thần chú là điều rất hay, dù quý vị có phải là thầy thuốc hay không, khi gặp người có bệnh, quý vị dùng thần chú này, vì họ mà đọc tụng, quý sẽ thấy sự kiến hiệu.

Những câu chú đều là dịch âm, đọc lên không thấy nghĩa của nó, vả lại cũng không cần biết nghĩa. Diệu dụng của chú là ở chỗ không thấy nghĩa của nó, đọc lên quý vị không hiểu gì, quý vị chỉ biết chú tâm tụng, không có vọng tưởng gì khác, bởi đó mà nó có cảm ứng.

Ví như chúng ta có thể niệm các câu trên một cách chuyên chú thì sự “cảm ứng đạo giao” sẽ không thể nghĩ bàn, do đó:

“Khi trong quang minh nói thần chú rồi”, lúc bấy giờ, trong ánh đại hào quang, khi đức Dược Sư nói câu chú, tức câu “Dược Sư Quán Đảnh Chân Ngôn” xong, thời “đại địa chấn động, phóng đại quang minh”, cả trái đất rung chuyển tỏa ra hào quang sáng rực.

Trong kinh ghi rằng: “Này ông Mạn Thù! Nếu có thấy ai, dù nam hay nữ, mắc phải bệnh khổ, thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy, tắm rửa súc miệng, tụng chú một trăm lẻ tám lần vào thức ăn hoặc thuốc, hoặc nước sạch trùng, thời đem cho uống, thì bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết. Nếu có cầu gì dốc lòng tụng niệm, cũng đều được cả và lại còn được sống lâu vô bệnh, sau khi mệnh chung sanh sang cõi kia, được ngôi bất thối, cho đến tận khi đắc đạo Bồ đề.

Bởi vậy cho nên ông Mạn Thù ơi! Nếu có nam tử nữ nhân nào mà dốc lòng cung kinh cúng dường đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời thường trì chú, chớ để lãng quên.”

Tham khảo thêm:

Lễ Vía Đức Phật Dược Sư : Ngày 30-09 Âm Lịch

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

12 Đại Tướng Dược Xoa theo hộ trì người tụng chú Dược Sư

Cung Tỳ La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Kim Tỳ La, được dịch ý là Cực Úy. Thân màu vàng, tay cầm bảo xử. Hóa thân của Di Lặc Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Hợi.

Phạt Chiết La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn Còn gọi là Bạt Chiết La, Hòa Kỳ La, dịch ý là Kim Cang. Thân màu Trắng, tay cầm bảo kiếm. là hóa thân của Đại Thế Chí, là thần hộ mạng tuổi Tuất.

Mê Súy La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Di Khứ La, dịch ý là Chấp Nghiêm. Thân màu vàng, tay cầm bảo bổng hoặc độc cổ. là hóa thân của Phật Di Đà, là thần hộ mạng tuổi Dậu.

An Để La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Át Nể La, An Nại La, An Đà La, dịch ý là Chấp Tinh. Thân màu xanh lục, tay cầm bảo chùy hoặc bảo châu. là hóa thân của Quán Thế Âm, là thần hộ mạng tuổi Thân.

Át Nể La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Mạt Nể La, Ma Ni La, dịch ý là Chấp Phong. Thân màu đỏ, tay cầm bảo xoa hoặc mũi tên. là hóa thân của Ma Lợi Chi, là thần hộ mạng tuổi Mùi.

San Để La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Bà Nể La, Tố Lam La, dịch ý là Cư Ngoại. Thân màu khói Lam, tay cầm bảo kiếm hoặc loa bối. là hóa thân của Hư Không Tạng, là thần hộ mạng tuổi Ngọ

Nhân Đạt La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Nhân Đà La, dịch ý là Chấp Lực. Thân màu Đỏ, tay cầm bảo côn hoặc mâu. là hóa thân của Địa Tạng Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Tỵ.

Ba Di La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Bà Da La, dịch ý là Chấp Ẩm. Thân màu đỏ, tay cầm bảo chùy hoặc cung tên. là hóa thân của Văn Thù Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Thìn.

Ma Hổ La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Bạc Hô La, Ma Hưu La, dịch ý là Chấp Ngôn. Thân màu trắng, tay cầm rìu báu. là hóa thân của Phật Dược Sư, là thần hộ mạng tuổi Mão.

Chân Đạt La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Châu Đổ La, Chiếu Đầu La, dịch ý là Chấp Tưởng. Thân màu vàng, tay cầm quyên sách hoặc bảo bổng. là hóa thân của Phổ Hiền Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Dần.

Chiêu Đổ La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Chu Đổ La, Chiếu Đầu La, dịch ý là Chấp Động. Thân màu xanh, tay cầm bảo chùy. là hóa thân của Kim Cang Thủ, là thần hộ mạng tuổi Sửu.

Tỳ Yết La Đại Tướng

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn - Ô-Hay.Vn

Còn gọi là Tỳ Già La, dịch ý là Viên Tác. Thân màu đỏ, tay cầm bảo luân hoặc tam cổ. là hóa thân của Phật Thích Ca, là thần hộ mạng tuổi Tý.

Recommended For You